TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI PHÁP NHÂN THƯƠNG MẠI NƯỚC NGOÀI PHẠM TỘI

Căn cứ pháp lý: 

  • Bộ luật Hình sự  

 

Bộ luật Hình sự đã chính thức đưa quy định lần đầu tiên về trách nhiệm hình sự mà pháp nhân thương mại phải chịu, trong đó bao gồm cả pháp nhân thương mại nước ngoài. 

 

1.Nguyên tắc xử lý hình sự đối với pháp nhân thương mại nước ngoài

Bộ luật Hình sự có hiệu lực đối với những hành vi vi phạm của pháp nhân thương mại ở trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam mà Bộ luật này quy định là tội hoặc theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Và theo quy định tại Điều 75 Bộ luật Hình sự thì pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại; vì lợi ích của pháp nhân thương mại; có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này. Việc pháp nhân thương mại truy cứu trách nhiệm hình sự không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân.

 

Theo Khoản 2 Điều 3 Bộ luật Hình sự nguyên tắc xử lý hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội được quy định như sau: 

– Mọi hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật;

– Mọi pháp nhân thương mại phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế;

– Nghiêm trị pháp nhân thương mại phạm tội dùng thủ đoạn tinh vi, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng;

– Khoan hồng đối với pháp nhân thương mại tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại gây ra, chủ động ngăn chặn hoặc khắc phục hậu quả xảy ra.

Chính vì vậy, có 2 loại hình phạt đối với pháp nhân thương mại nước ngoài khi thực hiện hành vi phạm tội, gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung như Phạt tiền; Đình chỉ hoạt động có thời hạn; Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn; Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định; Cấm huy động vốn; Các biện pháp tư pháp áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội.

2. Các biện pháp khác có thể áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội

Tòa án có thể quyết định áp dụng các biện pháp tư pháp sau đây đối với pháp nhân thương mại phạm tội: 

– Các biện pháp tư pháp quy định tại Điều 47 và Điều 48 của Bộ luật Hình sự;

– Biện pháp buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu;

– Biện pháp buộc thực hiện một số biện pháp nhằm khắc phục, ngăn chặn hậu quả tiếp tục xảy ra.

 

Tòa án có thể quyết định áp dụng biện pháp tư pháp buộc pháp nhân thương mại phạm tội phải khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do hành vi phạm tội của mình gây ra. Và căn cứ vào từng trường hợp phạm tội cụ thể, Tòa án có thể quyết định buộc pháp nhân thương mại phạm tội phải thực hiện một hoặc một số biện pháp sau đây nhằm khắc phục, ngăn chặn hậu quả của tội phạm:

– Buộc tháo dỡ công trình, phần công trình xây dựng không có giấy phép hoặc xây dựng không đúng với giấy phép;

– Buộc khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh;

– Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc tái xuất hàng hóa, vật phẩm, phương tiện được đưa vào lãnh thổ Việt Nam, nhập khẩu trái với quy định của pháp luật hoặc được tạm nhập, tái xuất nhưng không tái xuất theo quy định của pháp luật; hàng hóa nhập khẩu, quá cảnh xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, hàng hóa giả mạo quyền sở hữu trí tuệ, phương tiện, nguyên liệu, vật liệu nhập khẩu được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ sau khi đã loại bỏ yếu tố vi phạm;

– Buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường, văn hóa phẩm có nội dung độc hại hoặc tang vật khác thuộc đối tượng bị tiêu hủy theo quy định của pháp luật;

– Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, vật phẩm;

– Buộc thu hồi sản phẩm, hàng hóa vi phạm đang lưu thông trên thị trường.

 

Như vậy, trên đây là một số trách nhiệm hình sự mà pháp nhân nước ngoài phạm tội trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam có thể chịu. Bộ luật Hình sự năm 2015 cũng đã bổ sung 31 tội danh đã được quy định mà pháp nhân thương mại có thể phạm tội. Năm 2017, Quốc hội Việt Nam đã bổ sung thêm 2 tội, đó là Tội tài trợ khủng bố (Điều 300) và Tội rửa tiền (Điều 324).